net_left Kdata Phương Thức Thanh Toán
Phương Thức Thanh Toán

BĐS khu vực nào đang hút giới đầu tư? Thị trường Việt Nam 14/9

Theo Dong Hai AiVIF.com - Xu hướng các nhà đầu tư dịch chuyển về các tỉnh lân cận Hà Nội và TP.HCM (HM:HCM) đang trở nên rõ nét hơn, khu vực nào đang thu hút các nhà đầu tư...
BĐS khu vực nào đang hút giới đầu tư? Thị trường Việt Nam 14/9 © Reuters.

Theo Dong Hai

AiVIF.com - Xu hướng các nhà đầu tư dịch chuyển về các tỉnh lân cận Hà Nội và TP.HCM (HM:HCM) đang trở nên rõ nét hơn, khu vực nào đang thu hút các nhà đầu tư lĩnh vực BĐS tại Việt Nam trong tháng 7 và tháng 8? Giá cà phê tăng lên mức cao nhất trong vòng 4 năm và tăng trưởng tín dụng tính đến hết tháng 8 đạt 7,4% so với cuối năm 2020… là 3 thông tin đáng chú ý trong phiên giao dịch hôm nay thứ Ba ngày 14/9, cùng theo dõi nội dung chi tiết dưới đây.

1. BĐS khu vực nào đang hút giới đầu tư?

Theo báo cáo mới đây của Batdongsan.com.vn cho biết, do dịch bệnh còn diễn biến phức tạp, thị trường bất động sản Việt Nam trong tháng 8 tiếp tục chịu nhiều ảnh hưởng. Lượng tin đăng và mức độ quan tâm đại diện cho cung và cầu đều có sự sụt giảm mạnh so với tháng 7. Cụ thể, lượng tin đăng toàn trang trong tháng 8 giảm 58%, lượt quan tâm giảm 27% so với tháng trước. Mức giảm mạnh nhất tại các tỉnh, thành phố có có ca nhiễm tăng cao như TP.HCM, Hà Nội, Bình Dương, Đồng Nai, Đà Nẵng, Khánh Hòa. Tại Hà Nội và TP.HCM, mức độ quan tâm giảm lần lượt 36% và 17% so với tháng trước. Mức giảm ghi nhận ở hầu hết các loại hình bất động sản chính như chung cư, nhà riêng và nhà mặt phố. Trong khi đó, một số thị trường tỉnh khu vực phía Bắc đang được nhà đầu tư quan tâm nhờ những hiệu ứng tích cực từ hạ tầng. Một số tỉnh như Bắc Giang, Hải Phòng, Bắc Ninh, Lâm Đồng với mức độ quan tâm tăng lần lượt 26%, 8%, 7% và 3%. Mức tăng mạnh nhất được ghi nhận từ tháng 7.

Dữ liệu tháng 7 cũng cho thấy, thị trường bất động sản khu vực phía Bắc có nhiều điểm sáng hơn. Bắc Ninh, Bắc Giang và Hải Phòng đều ghi nhận mức độ quan tâm tăng trở lại. Trong khi đó, mức độ quan tâm tới các thị trường khác như TP.HCM, Bình Dương, Đồng Nai, Phú Yên,... đều suy giảm. Bắc Ninh và Bắc Giang đang có sự hồi phục mạnh mẽ sau khi dịch bệnh được kiểm soát. Lượt quan tâm đến bất động sản tại hai tỉnh này tăng lần lượt 40% và 22% so với tháng trước.

Như vậy, suốt hai tháng qua, khu vực phía Bắc, trong đó nổi bật là Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải Phòng đang được các nhà đầu tư quan tâm nhiều hơn. Riêng thị trường bất động sản Bắc Giang khoảng hai tháng trở lại đây đang chứng kiến tốc độ hồi phục mạnh mẽ.

2. Giá cà phê tăng lên mức cao nhất trong vòng 4 năm

Theo báo cáo từ Cục Xuất nhập khẩu, diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19 ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu khiến thị trường cà phê bị gián đoạn và trì trệ. Giá cước phí tăng cao, dịch bệnh diễn biến phức tạp sẽ cản trở rất lớn cho kế hoạch xuất khẩu cà phê cuối vụ 2020-2021 và cà phê vụ mới 2021 - 2022 bắt đầu từ 1/10 tới.

Đầu tháng 9, giá cà phê robusta tại thị trường trong nước tiếp tục tăng theo giá thế giới so với cuối tháng 8. Ngày 8/9, giá cà phê robusta trong nước tăng từ 1.000 - 3.000 đồng/kg so với ngày 28/8, lên mức 39.400 - 44.300 đồng/ kg, mức cao nhất trong 4 năm gần đây.

Trong tháng 8, giá cà phê xuất khẩu ghi nhận mức cao nhất trong vài năm trở lại đây. Theo đó, giá xuất khẩu bình quân cà phê của Việt Nam ước đạt 1.971 USD/tấn, tăng 2,6% so với tháng 7/2021 và tăng 7,1% so với tháng 8/2020. Lũy kế 8 tháng đầu năm 2021, giá xuất khẩu bình quân cà phê ước đạt 1.071 USD/tấn, tăng 8,6% so với cùng kỳ năm 2020.

Ở thị trường thế giới, đầu tháng 9, giá cà phê robusta và arabica tăng do nguồn cung hạn chế. Brazil bước vào kỳ nghỉ Lễ Độc Lập, trong khi dịch COVID-19 vẫn diễn biến phức tạp tại Việt Nam. Nhu cầu tiêu thụ không mấy khả quan do số ca lây nhiễm COVID-19 biến chủng mới khiến đà phục hồi các nền kinh tế lớn như Mỹ, EU chững lại. Giá tăng cũng có nguyên nhân một phần do giá cước phí vận tải biển cao.

  • Trên sàn giao dịch London, ngày 8/9, giá cà phê giao kỳ hạn tháng 11/2021, tháng 1/2022 tăng lần lượt 4,2%, 4,3% so với ngày 28/8, lên mức 2.102 USD/tấn, 2.069 USD/tấn.
  • Trên sàn giao dịch New York, ngày 8/9, giá cà phê arabica giao kỳ hạn tháng 12/2021 và tháng 5/2022 cùng tăng 0,9% so với ngày 28/8, lên mức 193,95 US cent/pound và 197,65 US cent/pound.

Cục Xuất nhập khẩu dự báo trong ngắn hạn, giá cà phê sẽ tiếp tục tăng, song tốc độ tăng sẽ chậm lại. Thời tiết của Brazil tuần tới có khả năng sẽ có lượng mưa dồi dào khởi đầu mưa mùa xuân.

3. Tăng trưởng tín dụng tính đến hết tháng 8 đạt 7,4% so với cuối năm 2020

Báo cáo thị trường tiền tệ tuần 6/9 - 10/9 của bộ phận Phân tích Chứng khoán SSI (HM:SSI), đề cập lãi suất huy động giảm nhẹ ở một số ngân hàng thương mại (NHTM) lớn. Các hoạt động thị trường mở không phát sinh giao dịch mới trong tuần qua. Mặt bằng lãi suất liên ngân hàng tuần qua giảm nhẹ khoảng 2 điểm cơ bản, kết tuần ở 0,7% cho kỳ hạn qua đêm và 0,84% cho kỳ hạn 1 tuần.

Số liệu từ Ngân hàng nhà nước cho thấy tăng trưởng tín dụng tính đến hết tháng 8 đạt 7,4% so với cuối năm 2020, tương đương với mức 14,6% so với cùng kỳ. Mặc dù tín dụng vẫn duy trì đà hồi phục từ tháng 4/2020, tăng trưởng trong tháng 8 có phần chậm lại dưới ảnh hưởng của dịch bệnh và giãn cách xã hội.

Thực tế, trong tháng 7 và 8, tổng giá trị tín dụng chỉ tăng thêm khoảng 88.000 tỷ đồng, chủ yếu vào giai đoạn cuối tháng 8 và thấp hơn nhiều so với mức tăng thêm 600.000 tỷ đồng trong 6 tháng đầu năm. Các chuyên viên phân tích tại SSI kỳ vọng tín dụng sẽ chưa có nhiều tiến triển trong tháng 9 và tháng 10, khi lệnh giãn cách xã hội vẫn còn áp dụng ở nhiều thành phố lớn. Thanh khoản trên hệ thống nhờ đó vẫn duy trì trạng thái dồi dào và lãi suất liên ngân hàng vẫn duy trì ở mức thấp.

Ngoài ra, lãi suất huy động ở nhiều kỳ hạn được điều chỉnh giảm 10 – 30 điểm cơ bản ở các NHTM lớn như MBB (HM:MBB), ACB (HM:ACB) và TCB (HM:TCB). Mặt bằng lãi suất huy động vẫn ở mức thấp nhất trong vòng nhiều năm qua, dao động ở 2,7 – 4% cho kỳ hạn dưới 6 tháng, 3,7 – 5% cho kỳ hạn 6 – 12 tháng và 4,6 – 6,5% cho kỳ hạn trên 12 tháng. Đến cuối tháng 7, tổng tiền gửi chỉ tăng 4% so với cùng kỳ, thấp hơn so với mức tăng 4,35% trong năm 2020 và chênh lệch tiền gửi – tín dụng tiếp tục thu hẹp. Mức chênh lệch này chưa thực sự tạo áp lực lên thanh khoản hệ thống khi vẫn cao hơn so với giai đoạn trước Covid, do vậy các chuyên viên phân tích SSI kỳ vọng lãi suất huy động vẫn tiếp tục đi ngang, thậm chí có thể giảm trong trường hợp NHNN cần phải có các biện pháp nới lỏng chính sách tiền tệ mạnh mẽ hơn để hỗ trợ sự hồi phục của nền kinh tế sau đại dịch.

Hot Auto Trade Bot Phương Thức Thanh Toán
BROKERS ĐƯỢC CẤP PHÉP
net_home_top Ai VIF
01-05-2024 10:45:17 (UTC+7)

EUR/USD

1.0658

-0.0008 (-0.07%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (2)

Sell (3)

EUR/USD

1.0658

-0.0008 (-0.07%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (2)

Sell (3)

GBP/USD

1.2475

-0.0015 (-0.12%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (10)

USD/JPY

157.91

+0.12 (+0.07%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (12)

Sell (0)

Indicators:

Buy (9)

Sell (0)

AUD/USD

0.6469

-0.0003 (-0.05%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (10)

Sell (2)

Indicators:

Buy (2)

Sell (3)

USD/CAD

1.3780

+0.0003 (+0.03%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (12)

Sell (0)

Indicators:

Buy (7)

Sell (0)

EUR/JPY

168.32

+0.10 (+0.06%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (12)

Sell (0)

Indicators:

Buy (9)

Sell (0)

EUR/CHF

0.9808

+0.0001 (+0.01%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (3)

Sell (2)

Gold Futures

2,295.80

-7.10 (-0.31%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (9)

Silver Futures

26.677

+0.023 (+0.09%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (2)

Sell (10)

Indicators:

Buy (0)

Sell (9)

Copper Futures

4.5305

-0.0105 (-0.23%)

Summary

↑ Buy

Moving Avg:

Buy (10)

Sell (2)

Indicators:

Buy (8)

Sell (1)

Crude Oil WTI Futures

81.14

-0.79 (-0.96%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

Brent Oil Futures

85.62

-0.71 (-0.82%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (1)

Sell (11)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

Natural Gas Futures

1.946

-0.009 (-0.46%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (5)

US Coffee C Futures

213.73

-13.77 (-6.05%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (3)

Sell (9)

Indicators:

Buy (0)

Sell (10)

Euro Stoxx 50

4,920.55

-60.54 (-1.22%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (4)

Sell (8)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

S&P 500

5,035.69

-80.48 (-1.57%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (7)

DAX

17,921.95

-196.37 (-1.08%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (6)

FTSE 100

8,144.13

-2.90 (-0.04%)

Summary

Sell

Moving Avg:

Buy (5)

Sell (7)

Indicators:

Buy (2)

Sell (4)

Hang Seng

17,763.03

+16.12 (+0.09%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (6)

US Small Cap 2000

1,973.05

-42.98 (-2.13%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (7)

IBEX 35

10,854.40

-246.40 (-2.22%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (6)

Sell (6)

Indicators:

Buy (3)

Sell (3)

BASF SE NA O.N.

49.155

+0.100 (+0.20%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (1)

Sell (7)

Bayer AG NA

27.35

-0.24 (-0.87%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (8)

Allianz SE VNA O.N.

266.60

+0.30 (+0.11%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (3)

Sell (5)

Adidas AG

226.40

-5.90 (-2.54%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (2)

Sell (7)

Deutsche Lufthansa AG

6.714

-0.028 (-0.42%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (3)

Sell (9)

Indicators:

Buy (9)

Sell (1)

Siemens AG Class N

175.90

-1.74 (-0.98%)

Summary

↑ Sell

Moving Avg:

Buy (0)

Sell (12)

Indicators:

Buy (0)

Sell (9)

Deutsche Bank AG

15.010

-0.094 (-0.62%)

Summary

Neutral

Moving Avg:

Buy (4)

Sell (8)

Indicators:

Buy (6)

Sell (2)

    EUR/USD 1.0658 ↑ Sell  
    GBP/USD 1.2475 ↑ Sell  
    USD/JPY 157.91 ↑ Buy  
    AUD/USD 0.6469 Neutral  
    USD/CAD 1.3780 ↑ Buy  
    EUR/JPY 168.32 ↑ Buy  
    EUR/CHF 0.9808 Neutral  
    Gold 2,295.80 ↑ Sell  
    Silver 26.677 ↑ Sell  
    Copper 4.5305 ↑ Buy  
    Crude Oil WTI 81.14 ↑ Sell  
    Brent Oil 85.62 ↑ Sell  
    Natural Gas 1.946 ↑ Sell  
    US Coffee C 213.73 ↑ Sell  
    Euro Stoxx 50 4,920.55 ↑ Sell  
    S&P 500 5,035.69 ↑ Sell  
    DAX 17,921.95 ↑ Sell  
    FTSE 100 8,144.13 Sell  
    Hang Seng 17,763.03 ↑ Sell  
    Small Cap 2000 1,973.05 ↑ Sell  
    IBEX 35 10,854.40 Neutral  
    BASF 49.155 ↑ Sell  
    Bayer 27.35 ↑ Sell  
    Allianz 266.60 ↑ Sell  
    Adidas 226.40 ↑ Sell  
    Lufthansa 6.714 Neutral  
    Siemens AG 175.90 ↑ Sell  
    Deutsche Bank AG 15.010 Neutral  
Mua/Bán 1 chỉ SJC
# So hôm qua # Chênh TG
SJC Eximbank8,300/ 8,500
(8,300/ 8,500) # 1,298
SJC 1L, 10L, 1KG8,300/ 8,520
(0/ 0) # 1,510
SJC 1c, 2c, 5c7,380/ 7,550
(0/ 0) # 540
SJC 0,5c7,380/ 7,560
(0/ 0) # 550
SJC 99,99%7,370/ 7,470
(0/ 0) # 460
SJC 99%7,196/ 7,396
(0/ 0) # 386
Cập nhật 01-05-2024 10:45:19
Xem lịch sử giá vàng SJC: nhấn đây!
ↀ Giá vàng thế giới
$2,285.72 -47.5 -2.04%
Live 24 hour Gold Chart
ʘ Giá bán lẻ xăng dầu
Sản phẩm Vùng 1 Vùng 2
RON 95-V25.44025.940
RON 95-III24.91025.400
E5 RON 92-II23.91024.380
DO 0.05S20.71021.120
DO 0,001S-V21.32021.740
Dầu hỏa 2-K20.68021.090
ↂ Giá dầu thô thế giới
WTI $80.83 +3.39 0.04%
Brent $85.50 +3.86 0.05%
$ Tỷ giá Vietcombank
Ngoại tệMua vàoBán ra
USD25.088,0025.458,00
EUR26.475,3627.949,19
GBP30.873,5232.211,36
JPY156,74166,02
KRW15,9219,31
Cập nhật lúc 10:45:15 01/05/2024
Xem bảng tỷ giá hối đoái
Phương Thức Thanh Toán