Vietstock - Vì sao Việt Nam trở thành 'ngôi sao' khi kinh tế toàn cầu đang suy giảm?
Những khoản đầu tư lớn gần đây đến từ phía các nhà cung cấp của Apple (NASDAQ:AAPL), Samsung, Lotte hay cả nhà sản xuất đồ chơi Lego của Đan Mạch là những tín hiệu đáng khích lệ cho tương lai của Việt Nam. Kết quả này là dấu hiệu cho thấy Việt Nam đang có được ảnh hưởng ngày càng lớn trong chuỗi sản xuất giá trị gia tăng toàn cầu.
Điểm sáng hiếm hoi
Theo Tiến sĩ Burkhard Schrage - Giảng viên cấp cao, chủ nhiệm bộ môn Quản trị và chương trình MBA, Trường Đại học RMIT Việt Nam, năm 2022 là một năm bản lề đối với Việt Nam trên nhiều phương diện hoạt động kinh tế. Có thể nói, năm 2022 là một phép thử kinh tế, rằng: Việt Nam có thể phục hồi các hoạt động kinh tế cốt lõi về mức trước đại dịch hay không? Doanh nghiệp và cấp quản lý tại Việt Nam có tiếp thu và triển khai được những bài học kinh nghiệm từ đại dịch hay chưa?
“Câu trả lời thống nhất cho những câu hỏi này là có. Việt Nam nổi lên là một nền kinh tế mạnh mẽ hơn và kiên cường hơn trong năm 2022. Doanh nghiệp trong tất cả các lĩnh vực đã trở nên linh hoạt và cạnh tranh hơn trong khu vực cũng như trên toàn cầu. Quả thực, Việt Nam là một điểm sáng trong bức tranh kinh tế thế giới đầy thách thức. Việt Nam không chỉ tăng trưởng tốt trong đại dịch COVID-19 mà còn vượt trội so với các nước khác trong khu vực vào năm 2022” - Tiến sĩ Burkhard Schrage nói.
Tăng trưởng GDP của Việt Nam, Thái Lan, Indonesia và Malaysia giai đoạn 2019 - 2023. (Nguồn: Quỹ Tiền tệ quốc tế, tháng 10/2022). |
Xét theo tổng sản phẩm quốc nội (GDP), nền kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng 8,8% trong 9 tháng đầu năm 2022. Tốc độ tăng trưởng thậm chí còn tăng tốc trong suốt năm 2022, với đỉnh điểm là 13,7% trong quý III năm nay. Kết quả này củng cố vị thế hàng đầu của Việt Nam ở châu Á trong 12 tháng qua và là lý do tại sao Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) gọi Việt Nam là điểm sáng trong bối cảnh kinh tế toàn cầu suy giảm.
Bà Nguyễn Ngọc Hồng Trâm - Trợ lý nghiên cứu, Trường Đại học RMIT Việt Nam - cho rằng, sự phục hồi mạnh mẽ sau COVID trong suốt cả năm không phải là điều hiển nhiên. Để giải quyết áp lực lạm phát đến từ chi phí năng lượng tăng và giá hàng hóa và thực phẩm tăng, Chính phủ đã quyết định tăng lãi suất trong những tháng qua. Tăng trưởng kinh tế nhanh trong môi trường lãi suất cao là một thành tựu đáng nể.
Tại sao Việt Nam có thể tăng trưởng trong môi trường lạm phát và lãi suất cao như vậy? Bà Hồng Trâm lý giải, khu vực công và tư nhân của Việt Nam đã nhanh chóng áp dụng chiến lược quốc gia chung sống với COVID-19, giảm bớt các hạn chế về đại dịch cho doanh nghiệp và người dân, đồng thời chứng kiến mức tăng trưởng tín dụng mạnh mẽ trong nửa đầu năm 2022. Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội được Chính phủ giới thiệu vào đầu năm 2022 là rất kịp thời. Chương trình này tập trung vào phát triển cơ sở hạ tầng giao thông, công nghệ thông tin, chuyển đổi số và các biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu.
Hai chuyên gia của Trường Đại học RMIT Việt Nam đều có chung nhận định, phần lớn tăng trưởng kinh tế là nhờ chi tiêu của hộ gia đình và chính phủ tăng. Tiêu dùng hộ gia đình tăng, báo hiệu niềm tin của người tiêu dùng tiếp tục tăng trong suốt cả năm.
Tăng trưởng GDP của Việt Nam từ quý I/2021 đến quý III/2022 (Nguồn: Statista 2022, Tổng cục Thống kê 2022). |
Năm 2022 cũng khẳng định bước chuyển quan trọng trong hành vi của người tiêu dùng, họ rất sẵn sàng chuyển sang hình thức mua sắm trực tuyến. Theo số liệu khảo sát, hiện nay có gần 60% người dân Việt Nam cân nhắc mua sắm trực tuyến vì sự tiện lợi của nó.
Điều quan trọng không kém là doanh nghiệp đã thích ứng với những hành vi tiêu dùng mới này bằng cách đẩy mạnh chuyển đổi số các quy trình và thậm chí cả mô hình kinh doanh. Việt Nam đã tăng 4 bậc lên vị trí thứ 5 ở Đông Nam Á trong một báo cáo gần đây về sức hấp dẫn của hệ sinh thái khởi nghiệp. Kết quả này một phần là nhờ chương trình chuyển đổi số quốc gia được phê duyệt từ năm 2020 - chương trình này đã nâng cao nhận thức của các tổ chức công và tư nhân trong việc thực hiện các chiến lược và quy trình kỹ thuật số.
Chuẩn bị cho đường dài
Theo Cục Đầu tư nước ngoài thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Việt Nam đã thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong 11 tháng đầu năm 2022, giảm 5% so với cùng kỳ. Hai yếu tố khiến vốn đăng ký giảm là các biện pháp phòng ngừa dịch COVID-19 vào đầu năm 2022 và bất ổn toàn cầu.
Tuy nhiên, tỷ lệ FDI dành cho các hoạt động công nghệ cao và có giá trị gia tăng cao lại tăng. FDI vào các dự án sản xuất phức hợp hoặc nghiên cứu và phát triển (R&D) là dấu hiệu cho thấy Việt Nam đang chiếm được một phần ngày càng lớn trong chuỗi sản xuất giá trị gia tăng toàn cầu. Loại hình sản xuất này sẽ là động lực chính để Việt Nam tăng trưởng kinh tế xã hội trong những thập kỷ tới.
Những khoản đầu tư lớn gần đây đến từ phía các nhà cung cấp của Apple, Samsung, Lotte hay cả nhà sản xuất đồ chơi Lego của Đan Mạch là những tín hiệu đáng khích lệ cho tương lai của Việt Nam. |
“Không chỉ thu hút đầu tư vào những ngành sản xuất thâm dụng lao động và đơn giản, năm 2022 Việt Nam đã đón nhận những cam kết mạnh mẽ từ các nhà cung cấp của Samsung và Apple, thể hiện niềm tin ngày càng lớn vào khả năng nâng cao tay nghề cho lực lượng lao động, tuân thủ các tiêu chuẩn sản xuất toàn cầu và thực hiện quản trị tốt xuyên suốt chuỗi cung ứng của các đối tác Việt Nam” - Tiến sĩ Burkhard Schrage nói.
Một ví dụ điển hình cho sự dịch chuyển từ đầu tư vì sức lao động sang đầu tư vì kỹ năng là việc Foxconn - nhà sản xuất thiết bị gốc (OEM) lớn nhất và lâu đời nhất của Apple - đã thông báo đầu tư 300 triệu USD vào một nhà máy mới ở Bắc Giang. Tại đây, Foxconn dự kiến sẽ lắp ráp các sản phẩm Macbook. Việc sản xuất những chiếc máy tính xách tay này đòi hỏi chuỗi cung ứng phức tạp hơn, công nhân sản xuất cần được đào tạo tốt hơn và máy móc cần có độ chính xác cao hơn so với việc sản xuất tai nghe nhét tai của Apple.
Việc các nhà đầu tư lớn của thế giới chuyển dịch sản xuất sang Việt Nam đã mang lại giá trị rất lớn góp phần thúc đẩy tăng trưởng GDP. |
Những khoản đầu tư lớn gần đây đến từ phía các nhà cung cấp của Apple, Samsung, Lotte hay cả nhà sản xuất đồ chơi Lego của Đan Mạch là những tín hiệu đáng khích lệ cho tương lai của Việt Nam. Chắc chắn, những nhà đầu tư này sẽ mang lại tiền và tạo việc làm cho Việt Nam. Ngoài ra, một số nghiên cứu học thuật cũng chỉ ra rằng, các hoạt động đầu tư này sẽ tạo hiệu ứng lan tỏa tích cực đối với toàn bộ nền kinh tế.
Duy Quang
EUR/USD
1.0658
-0.0008 (-0.07%)
Summary
↑ SellMoving Avg:
Buy (0)
Sell (12)
Indicators:
Buy (2)
Sell (3)
EUR/USD
1.0658
-0.0008 (-0.07%)
Summary
↑ SellMoving Avg:
Buy (0)
Sell (12)
Indicators:
Buy (2)
Sell (3)
GBP/USD
1.2475
-0.0015 (-0.12%)
Summary
↑ SellMoving Avg:
Buy (0)
Sell (12)
Indicators:
Buy (0)
Sell (10)
USD/JPY
157.91
+0.12 (+0.07%)
Summary
↑ BuyMoving Avg:
Buy (12)
Sell (0)
Indicators:
Buy (9)
Sell (0)
AUD/USD
0.6469
-0.0003 (-0.05%)
Summary
NeutralMoving Avg:
Buy (10)
Sell (2)
Indicators:
Buy (2)
Sell (3)
USD/CAD
1.3780
+0.0003 (+0.03%)
Summary
↑ BuyMoving Avg:
Buy (12)
Sell (0)
Indicators:
Buy (7)
Sell (0)
EUR/JPY
168.32
+0.10 (+0.06%)
Summary
↑ BuyMoving Avg:
Buy (12)
Sell (0)
Indicators:
Buy (9)
Sell (0)
EUR/CHF
0.9808
+0.0001 (+0.01%)
Summary
NeutralMoving Avg:
Buy (0)
Sell (12)
Indicators:
Buy (3)
Sell (2)
Gold Futures
2,295.80
-7.10 (-0.31%)
Summary
↑ SellMoving Avg:
Buy (0)
Sell (12)
Indicators:
Buy (0)
Sell (9)
Silver Futures
26.677
+0.023 (+0.09%)
Summary
↑ SellMoving Avg:
Buy (2)
Sell (10)
Indicators:
Buy (0)
Sell (9)
Copper Futures
4.5305
-0.0105 (-0.23%)
Summary
↑ BuyMoving Avg:
Buy (10)
Sell (2)
Indicators:
Buy (8)
Sell (1)
Crude Oil WTI Futures
81.14
-0.79 (-0.96%)
Summary
↑ SellMoving Avg:
Buy (0)
Sell (12)
Indicators:
Buy (1)
Sell (7)
Brent Oil Futures
85.62
-0.71 (-0.82%)
Summary
↑ SellMoving Avg:
Buy (1)
Sell (11)
Indicators:
Buy (1)
Sell (7)
Natural Gas Futures
1.946
-0.009 (-0.46%)
Summary
↑ SellMoving Avg:
Buy (0)
Sell (12)
Indicators:
Buy (0)
Sell (5)
US Coffee C Futures
213.73
-13.77 (-6.05%)
Summary
↑ SellMoving Avg:
Buy (3)
Sell (9)
Indicators:
Buy (0)
Sell (10)
Euro Stoxx 50
4,920.55
-60.54 (-1.22%)
Summary
↑ SellMoving Avg:
Buy (4)
Sell (8)
Indicators:
Buy (1)
Sell (7)
S&P 500
5,035.69
-80.48 (-1.57%)
Summary
↑ SellMoving Avg:
Buy (0)
Sell (12)
Indicators:
Buy (0)
Sell (7)
DAX
17,921.95
-196.37 (-1.08%)
Summary
↑ SellMoving Avg:
Buy (0)
Sell (12)
Indicators:
Buy (1)
Sell (6)
FTSE 100
8,144.13
-2.90 (-0.04%)
Summary
SellMoving Avg:
Buy (5)
Sell (7)
Indicators:
Buy (2)
Sell (4)
Hang Seng
17,763.03
+16.12 (+0.09%)
Summary
↑ SellMoving Avg:
Buy (0)
Sell (12)
Indicators:
Buy (1)
Sell (6)
US Small Cap 2000
1,973.05
-42.98 (-2.13%)
Summary
↑ SellMoving Avg:
Buy (0)
Sell (12)
Indicators:
Buy (0)
Sell (7)
IBEX 35
10,854.40
-246.40 (-2.22%)
Summary
NeutralMoving Avg:
Buy (6)
Sell (6)
Indicators:
Buy (3)
Sell (3)
BASF SE NA O.N.
49.155
+0.100 (+0.20%)
Summary
↑ SellMoving Avg:
Buy (0)
Sell (12)
Indicators:
Buy (1)
Sell (7)
Bayer AG NA
27.35
-0.24 (-0.87%)
Summary
↑ SellMoving Avg:
Buy (0)
Sell (12)
Indicators:
Buy (0)
Sell (8)
Allianz SE VNA O.N.
266.60
+0.30 (+0.11%)
Summary
↑ SellMoving Avg:
Buy (0)
Sell (12)
Indicators:
Buy (3)
Sell (5)
Adidas AG
226.40
-5.90 (-2.54%)
Summary
↑ SellMoving Avg:
Buy (0)
Sell (12)
Indicators:
Buy (2)
Sell (7)
Deutsche Lufthansa AG
6.714
-0.028 (-0.42%)
Summary
NeutralMoving Avg:
Buy (3)
Sell (9)
Indicators:
Buy (9)
Sell (1)
Siemens AG Class N
175.90
-1.74 (-0.98%)
Summary
↑ SellMoving Avg:
Buy (0)
Sell (12)
Indicators:
Buy (0)
Sell (9)
Deutsche Bank AG
15.010
-0.094 (-0.62%)
Summary
NeutralMoving Avg:
Buy (4)
Sell (8)
Indicators:
Buy (6)
Sell (2)
EUR/USD | 1.0658 | ↑ Sell | |||
GBP/USD | 1.2475 | ↑ Sell | |||
USD/JPY | 157.91 | ↑ Buy | |||
AUD/USD | 0.6469 | Neutral | |||
USD/CAD | 1.3780 | ↑ Buy | |||
EUR/JPY | 168.32 | ↑ Buy | |||
EUR/CHF | 0.9808 | Neutral |
Gold | 2,295.80 | ↑ Sell | |||
Silver | 26.677 | ↑ Sell | |||
Copper | 4.5305 | ↑ Buy | |||
Crude Oil WTI | 81.14 | ↑ Sell | |||
Brent Oil | 85.62 | ↑ Sell | |||
Natural Gas | 1.946 | ↑ Sell | |||
US Coffee C | 213.73 | ↑ Sell |
Euro Stoxx 50 | 4,920.55 | ↑ Sell | |||
S&P 500 | 5,035.69 | ↑ Sell | |||
DAX | 17,921.95 | ↑ Sell | |||
FTSE 100 | 8,144.13 | Sell | |||
Hang Seng | 17,763.03 | ↑ Sell | |||
Small Cap 2000 | 1,973.05 | ↑ Sell | |||
IBEX 35 | 10,854.40 | Neutral |
BASF | 49.155 | ↑ Sell | |||
Bayer | 27.35 | ↑ Sell | |||
Allianz | 266.60 | ↑ Sell | |||
Adidas | 226.40 | ↑ Sell | |||
Lufthansa | 6.714 | Neutral | |||
Siemens AG | 175.90 | ↑ Sell | |||
Deutsche Bank AG | 15.010 | Neutral |
Mua/Bán 1 chỉ SJC # So hôm qua # Chênh TG | |
---|---|
SJC Eximbank | 8,300/ 8,500 (8,300/ 8,500) # 1,298 |
SJC 1L, 10L, 1KG | 8,300/ 8,520 (0/ 0) # 1,510 |
SJC 1c, 2c, 5c | 7,380/ 7,550 (0/ 0) # 540 |
SJC 0,5c | 7,380/ 7,560 (0/ 0) # 550 |
SJC 99,99% | 7,370/ 7,470 (0/ 0) # 460 |
SJC 99% | 7,196/ 7,396 (0/ 0) # 386 |
Cập nhật 01-05-2024 10:45:19 | |
Xem lịch sử giá vàng SJC: nhấn đây! |
ↀ Giá vàng thế giới | ||
---|---|---|
$2,285.72 | -47.5 | -2.04% |
ʘ Giá bán lẻ xăng dầu | ||
---|---|---|
Sản phẩm | Vùng 1 | Vùng 2 |
RON 95-V | 25.440 | 25.940 |
RON 95-III | 24.910 | 25.400 |
E5 RON 92-II | 23.910 | 24.380 |
DO 0.05S | 20.710 | 21.120 |
DO 0,001S-V | 21.320 | 21.740 |
Dầu hỏa 2-K | 20.680 | 21.090 |
ↂ Giá dầu thô thế giới | |||
---|---|---|---|
WTI | $80.83 | +3.39 | 0.04% |
Brent | $85.50 | +3.86 | 0.05% |
$ Tỷ giá Vietcombank | ||
---|---|---|
Ngoại tệ | Mua vào | Bán ra |
USD | 25.088,00 | 25.458,00 |
EUR | 26.475,36 | 27.949,19 |
GBP | 30.873,52 | 32.211,36 |
JPY | 156,74 | 166,02 |
KRW | 15,92 | 19,31 |
Cập nhật lúc 10:45:15 01/05/2024 Xem bảng tỷ giá hối đoái |